Bạn thân mến! Quê hương trong tâm thức mỗi người luôn chứa đựng những hình ảnh thân thuộc gắn bó mà khi đi xa nỗi nhớ ấy ùa về da diết… không chỉ là những hình ảnh đơn thuần mà nó còn gắn liền với cả gia đình thân thương, những ký ức tuổi thơ không thể phai nhạt. Mời bạn đến với Blog Radio 257 – Blog Radio dành cho những người xa quê hương với những lá thư đầy ắp kỷ niệm…
- Biển đời và chiếc nón lá
“Con dù lớn vẫn là con của mẹ,
Đi suốt đời lòng mẹ cũng theo con…”
Mười mấy năm trời đến lớp cũng là mười mấy năm mẹ lặng lẽ bên tôi. Ngày đầu tiên được đến trường cảm giác vui mừng khôn xiết, vì đó là lần đầu tiên tôi có được nhiều bạn bè đến như vậy. Trên con đường lất phất lá me bay, mẹ dắt tay tôi cười nói luyên huyên, căn dặn đủ điều, nào là vào lớp phải cố gắng học hành, không được ham chơi, nghe lời thầy cô giảng bài, không được đánh nhau,…Những lời dặn dò với lời lẽ mộc mạc, ngắn củn của một người phụ nữ nông thôn miền Tây nhưng chứa đựng biết bao nhiêu kỳ vọng của bậc sinh thành, nó bao la, rộng mở và dạt dào như dòng sông êm ả, như chiếc nón lá quê mùa, chất phác.
Không biết dùng lời nào để nói chính xác về sự khăng khít của mẹ với chiếc nón lá, đi đâu mẹ cũng tự tin với cái nón lá cùng chiếc áo bà ba, mẹ nói “đó là người bạn đường sẻ nắng che mưa với mẹ từ lúc mẹ còn con gái, dù có xuống biển hay lên rừng mẹ cũng mang theo”. Không phải riêng mẹ, mà tất cả bà con miền Tây đều quen thuộc với nón lá, không có nó người ta như thấy thiếu vắng một cái gì đó thân thương nhất. Riêng mẹ, mẹ khắng khít đến nỗi chỉ cần vừa đội lên đầu là chú cún trong nhà liền vẫy đuôi liên tục vì nó biết mẹ sắp chuẩn bị đi đâu đó để nó có cơ hội đi theo.
Bao nhiêu năm trôi qua, dù có đứng tận đằng xa, hay cuối con đường mòn nơi có rặng trâm bầu quanh năm xanh lá, tôi cũng nhận ra được bóng mẹ lom khom, nhấp nhô ngoài đồng với cái nón quen thuộc, cũ kỹ. Những đêm mưa lạnh lẽo, trong nhà có những chỗ nhỏ nước, mẹ xoắn cái quần đen ống rộng, đội lên đầu cái nón lá bưng từng cái thau hứng nước, sợ mưa dột lên chỗ con nằm, mẹ dùng bao nylon phủ cẩn thận lên nốc mùng, chốc lát lại đi từng tra. Những ngày vào mùa thi, chị em tôi phải thức khuya học bài, mẹ cũng mắc cái võng nằm kế bên không chịu đi ngủ, mắt cứ lim dim, thỉnh thoảng lại mở ra như để kiểm tra, ba tôi có nói mấy đi nữa mẹ cũng nằm đó đung đưa cái võng do chính tay mẹ kết bằng dây chuối, mặc cho những con muỗi hút máu, mẹ vẫn điềm nhiên đập bộp bộp lên người, gãi xồn xột vì ngứa, thỉnh thoảng nhắc nhở chị em tôi tranh thủ ngủ sớm với cái giọng khàn khàn.
“Cha mẹ thương con như biển trời lai láng”, trên đời này tôi chưa từng thấy người mẹ nào thương con “kỳ cục” như mẹ tôi, những ngày đi học thêm về trễ, mẹ bưng chiếc đèn dầu loe loé sáng ngồi đợi ở góc đường, hoặc khi nghe loáng thoáng đứa nào đó thèm ăn món gì, dù có làm cực khổ đến đâu mẹ cũng âm thầm chuẩn bị. Những ngày không có nắng, sợ quần áo không kịp khô để sáng mai đến trường, mẹ đứng ngồi không yên, hết treo chỗ này lại treo chỗ nọ, chỗ nào có gió là mẹ tranh thủ ngay, vì chị em tôi không có nhiều quần áo nên lắm lúc cũng phải mặc quần áo còn ẩm ướt mà đến trường, thằng út hôm qua bất cẩn, té vào bờ rào rách cái cặp, mẹ lại thức khuya, cắt cái bao nylon may cặp mới cho nó, nó vui mừng ngủ gục bên cạnh mẹ mà chờ đợi. Đôi mắt mẹ nheo nheo, vầng trán mẹ xuất hiện nhiều nếp nhăn hơn trước.
Mẹ hay trách móc bà nội vội vàng, gắt gỏng, nhưng hình như trời đã sắp đặt mẹ về làm vợ ba, làm dâu bà nội để thừa hưởng cái tính nóng nảy đó. Nghe tin thằng Tèo đánh nhau với thằng Bi xóm trên, mẹ thằng Bi bênh vực con mắng thằng Tèo vài câu, mẹ ngoe nguẩy nón lá trên tay, vừa đi vừa lầm bầm “dám ăn hiếp con tao, dù có lên trời tao cũng đến”. Tôi chỉ biết nhún vai và thầm nhủ “giá như có bậc thang lên trời chắc mẹ cũng leo, huống chi lên rừng hay xuống biển”.
Ngày tiễn chị tôi lên Sài Gòn học, mẹ cũng quảy cái nón lá, ôm theo giỏ gạo và mấy con cá khô vào tận ký túc xá, đôi dép lào cứng ngắt trên đôi chân nhuộm màu phèn, màu bùn cùng mẹ đi khắp thành đô. Đôi dép đó mẹ mua hôm gả chị Hai lấy chồng, tính đến nay cũng được hai năm, hết tiễn đứa này đi lấy chồng đến đứa kia đi học, hễ đứa nào về nhà rồi đi, mẹ cũng tiễn chân đến tận cuối đường và đứng nhìn cho đến khi nào khuất dạng.Thằng út năm nay lên lớp tám, tôi chuẩn bị lên Sài Gòn thi Đại Học, mẹ cũng khăn gối đòi đi theo, tôi trấn an mẹ “có chị ba trên đó, chỉ đưa con đi thi, mẹ lên đó làm gì cho mất công”, không cho mẹ đi mẹ giận hờn, trách móc, tôi viện cớ đường xá xa xôi để ngăn mẹ lại, mẹ liền trích dẫn chứng “hồi ba mày còn đi lính, mẹ ẵm chị hai mày mới mấy tháng tuổi đến tận chỗ tìm ba, đường xá còn xa vạn lần, xe cộ sang tới sang lui chứ đâu phải đi một mạch như bây giờ, ba mày dời đi đâu mẹ cũng đi đến tận đó”. Thấy ba cười lắc đầu, tôi cũng đành bó tay, thế là bao nhiêu ngày tôi thi trường học cũng là bấy nhiêu ngày mẹ dặm thêm trường đời, hậu phương thì vững chắc mà tiền tuyến như tôi chưa biết ra sao! Một lần nữa cái nón lá và đôi dép lào theo mẹ đến đất Sài thành.
Mẹ khẳng định khi nào mẹ chết thì thôi, chứ nếu còn sống thì dù con cái có lập gia đình, thậm chí có con, có cháu thì đối với mẹ chị em tôi lúc nào cũng còn nhỏ lắm. Một lần, nghe thằng cháu ngoại 5 tuổi(con của chị Hai) vô tư kể lại “hôm qua cha con đánh mẹ”, tính Trương Phi nổi dậy trong lòng mẹ và muốn đi đến tận nhà để hỏi lý do, ba và cả nhà thuyết phục mãi mẹ mới chịu thôi, cũng chẳng phải mẹ dễ dàng bỏ qua như vậy đâu mà khi hỏi cặn kẽ thằng cháu mới biết : “Cha con đánh mẹ mấy cái?Mẹ con có đánh lại không?”. “ – Cha đánh mẹ một cái, mẹ đánh lại ba, bốn cái luôn”
Đối diện với mẹ, tôi thấy mình nhỏ dại vô cùng, không biết sau này, trong cuộc đời của mình, tôi có thể làm tròn bổn phận như mẹ bây giờ hay không! Mẹ tôi là như vậy đấy, dù có đi đâu mẹ cũng tình nguyện đi theo, dù có làm gì mẹ cũng tình nguyện làm thay, cho dù đường đi có gập ghềnh, chông chênh, dẫu mẹ chỉ là hòn sỏi giữa non cao hay chỉ là giọt nước giữa đại dương muôn trùng, mẹ vẫn có thể làm tất cả vì con chỉ cần một chiếc nón lá.
- Gửi từ lethi_doantrinh@
- Có một lũy tre làng trong ký ức tuổi thơ
Tôi sinh ra ở một vùng quê đầy nắng và gió. Tuổi thơ của tôi gắn chặt với miền quê cằn cỗi ấy. Nhưng đến năm tôi lên lớp năm, sau những trận đỏ đen ngút trời, bố mang cả gia đình bỏ đi biệt xứ.
Có những buổi chiều lặng gió, đứng giữa vườn dừa bạt ngàn của vùng Đông Nam Bộ, tôi ngơ ngác xăm soi từng thân cây một mong tìm lại chút thân quen. Cây tre bắc bộ ám ảnh tôi suốt cuộc đời. Những khi ấy tôi nhớ da diết cơn mưa lá tre ào ào của một vùng mờ mờ trong kí ức. Tất cả chỉ là ảo vọng của một đứa con tha hương sống lay lắt bên kia bờ hoài niệm mà thôi.
Quê tôi có nhiều loại cây lắm: Cây mít, cây trôi, cây quéo… Mỗi độ bão tràn về, thế nào sáng ra cũng có dăm cây cổ thụ đổ vật xuống, chắn kín đường làng. Tôi hỏi ông tôi: “Ông ơi! Sao chúng lại bị đổ hả ông?”. Ông bảo tôi rằng: “Vì chúng chỉ đứng đơn độc cháu ạ!”. Tôi “À” một tiếng rõ to rồi phóng mắt nhìn ra xa, rặng tre ngoài kia quấn chặt lấy nhau vẫn đứng hiên ngang trong gió.
Cây tre quê tôi cao vút, được ghép lại bởi hàng chục đốt xanh ngắt mỡ màng nhưng cũng có khi vàng óng ả. Lũ trẻ chúng tôi phân loại từng rặng tre: Búi tre ông Nghi, búi tre ông Đản, tre ngộc, tre hóp… Búi tre ông Nghi gày xơ xác, thấp lè tè nhưng chắc đến đanh lại. Cứ mỗi mùa quả đay đến vụ, quả xoan ương sắp chín hay thậm chí sang cả mùa cơm nguội, trưa nào lũ trẻ chúng tôi cũng rình mò, lén lút đâu đó quanh khóm tre ít ỏi. Chỉ lơ một cái, y rằng một cây cũng bị chặt phéng ngay đem về chia nhau làm súng hóp. Thằng nào chẳng may bị bắt, mặt nó xanh lét đến thảm hại bởi ông Nghi, chủ nhà, đã từng nổi tiếng vì thành tích chặt đứt đuôi con bò nhà thằng Tưởng chỉ vì nó dại dột liếm vài cái lá tre.
Búi tre ngộc được biết đến nhiều hơn cả. Tôi còn đặt cho nó cái tên tre tây. Vì nghe bà kể bọn tây hồi xưa cũng to như tre ngộc vậy. Muốn nhìn thấy ngọn, tôi phải khum khum hai tay, nheo mắt lại. Trên đó chim kéo về hàng đàn vì chẳng mấy khi có người trèo lên được. Mo tre ngộc to như cái quạt nan, vàng xộm, đem bán cho các nhà đan nón phải đắt gấp hai tre thường. Mỗi độ thu về, nhiều đứa có khi chỉ vì tranh nhau cái mo tre mà choảng nhau sứt đầu mẻ trán.
Ông tôi có tài làm mọi thứ bằng tre. Khoảng tháng tư, tháng năm hàng năm, lúc bão bắt đầu tràn về, ông ngả bớt những cây tre rìa búi sắp đổ. Sau đó ông ngâm xuống ao đến vụ cá đầu đông. Vào những ngày giá rét, tôi ngồi xem ông cắt khúc cây tre như cắt khúc một con lươn khổng lồ vừa kéo được dưới ao lên. Chỉ từ vài khúc tre như vậy ông tôi đã biến hoá ra bao nhiêu thứ: Cái rổ, cái giá, cái giần, cái sàng…
Ông tự làm cho mình một cái điếu cày rất đẹp, châm lửa hút thuốc bằng đóm tự chẻ luôn. Những ngày xẻ thịt cây tre, ông không bao giờ quên đan cho tôi cái bu gà trọi và cái giậm treo lên gác bếp chờ mùa lụt sang năm. Ở một nơi xa lắm, nơi cây tre chỉ có trong từ điển, tôi nhớ quá gốc tre cùng ông trồng những ngày cuối tôi sắp phải ra đi.
Mùa lá tre về, đâu đâu cũng giăng mắc bao chiếc thuyền cong cong, xoay trong gió. Lá tre rụng ào ào như trút, rụng triền miên. Cây tre trút đi chiếc áo để mùa đông đứng xo ro chịu rét. Nhưng khi ấy bà tôi vào mùa. Vẫn chiếc áo nâu sờn khâu bao lần chỉ bên ngoài và bên trong là chiếc áo cánh gián toả ra mùi trầu hăng hăng quen thuộc. Một tay cầm chổi rễ cùn, tay kia bà kéo lê chiếc bao tải cũ mèm len lỏi khắp các búi tre.
Bà luồn bàn tay nâu xạm, đầy những đường gân vơ từng chiếc lá. Tôi chạy theo bà, thi thoảng cũng bẻ được vài cành củi rồi lại biến tót ngay để mặc bà nhặt mùa thu mang về. Tôi nhớ nhất cái dáng ngồi đun bếp của bà. Bếp thì nhỏ lại ọp ẹp. Mùa hè khói quyện đặc, cay xè mắt. Thế mà bà vẫn ngồi còng gập trên chiếc ghế con đủn đều đặn từng nắm lá tre dọc theo năm tháng.
Mùa đông bà dậy từ tinh mơ bắc bếp nhẩn nha luộc cho tôi nồi khoai củ mật. Nhớ ngày ấy, mỗi sáng vùng dậy, tôi không bao giờ chịu mặc quần áo rét ngay mà đánh chiếc quần cộc lao vù qua sân xuống bếp bó gối tựa lưng vào người bà. Ngồi buồn, tôi kiếm cành rào nhỏ phá bĩnh bếp lửa, lúc thì tranh bà đủn lá tre, lúc thì lấy tàn than giết lũ kiến xung quanh. Bà giơ cao cái que bời cháy nham nhở dứ dứ, tôi chạy biến.
Nhớ về tuổi thơ tôi nhớ day dứt nồi khoai củ mật và cái que bời cháy nham nhở ngày nào. Ngày tôi đi, lưng bà còng hẳn rồi. Tay bà thì run run ghê lắm. Ấy thế mà bà băm rau lang nấu cám cho lợn lại chẳng bao giờ bị đứt tay như tôi. Bà bảo tôi: “Nó có cữ rồi”. Tôi gật gật dẫu chẳng biết “cữ” là gì cả. Nhưng bữa cơm bà chan canh khó thực. Nước cứ sóng sánh trực trào ra bên ngoài. Tôi bất ngờ reo lên: “A! Bà chan canh không có cữ nhớ”. Bà bật cười móm mém: “Cha bố anh!”.
Bao giờ tôi cũng xí phần chan canh cho bà. Thế mà tôi lại phải đi…
Hôm đó ông bà đưa tiễn chúng tôi ra mãi tận đầu làng. Ông thì yên lặng nhưng bà thỉnh thoảng lại lau mắt bằng chiếc khăn mùi xoa mà lần nào đi chùa về bà cũng gói trong đó không quả chuối thì cái oản cúng cho tôi. Chiếc xe xa dần, xa dần. Tay bà run rẩy trong hơi lạnh. Lá tre đổ ào ào như bão.
Mùa này chắc lá tre quê tôi bắt đầu rụng. Hôm trước đọc báo thấy mặt hàng mây, tre đan xuất khẩu của Việt Nam được giá. Vui thì vui thật nhưng chẳng biết lũ trẻ quê tôi có còn chỗ để móc mo tre nữa hay không?
Cách đây vài tháng tôi bất chợt gặp thằng bạn ấu thơ phiêu dạt vào đây. Nó kể “quê mình giờ lấy đâu còn lá tre”. Ông bà nội tôi thì đã mất cả rồi. Thế mà chẳng hiểu sao tôi vẫn day dứt về một mùa lá tre. Có lẽ tôi phải về thôi. Biết đâu búi tre ông trồng cho tôi chả còn…
- Bùi Vững
No comments:
Post a Comment